VIÊM CƠ, ÁP XE CƠ

Viêm cơ đề cập đến bất kỳ tình trạng gây viêm trong cơ bắp. Yếu, sưng và đau là các triệu chứng viêm cơ phổ biến nhất. Nguyên nhân gây viêm cơ bao gồm nhiễm trùng, chấn thương, tình trạng tự miễn dịch và tác dụng phụ của thuốc. Điều trị viêm cơ khác nhau tùy theo nguyên nhân.

daydreaming distracted girl in class

VIÊM CƠ, ÁP XE CƠ

 

Viêm cơ là một tình trạng xảy ra do sự ảnh hưởng của nhiễm trùng, chấn thương hay tác dụng phụ của thuốc

 

Nguyên nhân của viêm cơ

Viêm cơ là do bất kỳ tình trạng nào dẫn đến viêm cơ. Nguyên nhân viêm cơ có thể được chia thành nhiều loại:

Tình trạng viêm nhiễm. Các tình trạng gây viêm khắp cơ thể có thể ảnh hưởng đến cơ, gây viêm cơ. Nhiều nguyên nhân trong số này là tình trạng tự miễn dịch, trong đó cơ thể tự tấn công các mô của chính mình. Các tình trạng viêm gây ra viêm cơ nghiêm trọng có thể xảy ra bao gồm:

  • Viêm da cơ

  • Viêm đa cơ

  • Viêm cơ toàn thân

Các tình trạng viêm khác có xu hướng gây ra các dạng viêm cơ nhẹ hơn, bao gồm:

  • Lupus

  • Bệnh xơ cứng bì

  • Viêm khớp dạng thấp

Tình trạng viêm nhiễm thường là nguyên nhân gây viêm cơ nghiêm trọng nhất, cần điều trị lâu dài.

Sự nhiễm trùng. Nhiễm trùng do vi rút là những bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất gây ra viêm cơ. Hiếm khi vi khuẩn, nấm hoặc các sinh vật khác có thể gây ra tình trạng này. Vi rút hoặc vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp vào mô cơ hoặc giải phóng các chất làm hỏng sợi cơ. Các vi rút cảm lạnh và cúm thông thường, cũng như HIV, chỉ là một vài trong số các vi rút có thể gây viêm cơ.

Thuốc. Nhiều loại thuốc khác nhau có thể gây tổn thương cơ tạm thời. Vì tình trạng viêm ở cơ thường không được xác định, vấn đề về cơ có thể được gọi là bệnh cơ hơn là viêm cơ. Thuốc gây viêm cơ hoặc bệnh cơ bao gồm:

  • Statin

  • Colchicine

  • Plaquenil (hydroxychloroquine)

  • Alpha- interferon

  • Cocain

  • Rượu

Bệnh cơ có thể xảy ra ngay sau khi bắt đầu dùng thuốc, hoặc có thể xảy ra sau khi dùng thuốc vài tháng hoặc nhiều năm. Đôi khi nó được gây ra bởi sự tương tác giữa hai loại thuốc khác nhau. Viêm cơ nặng do dùng thuốc là rất hiếm.

Vết thương. Tập thể dục quá mạnh có thể dẫn đến đau, sưng và yếu cơ trong nhiều giờ hoặc vài ngày sau khi tập luyện. Các triệu chứng viêm cơ sau khi tập thể dục hoặc chấn thương gần như luôn giải quyết hoàn toàn khi nghỉ ngơi và phục hồi.

Tiêu cơ vân. Tiêu cơ vân xảy ra khi các cơ bị phá vỡ nhanh chóng. Đau, yếu và sưng cơ là các triệu chứng của tiêu cơ vân. Nước tiểu cũng có thể chuyển sang màu nâu sẫm hoặc đỏ.

 

Các triệu chứng của viêm cơ

Triệu chứng chính của viêm cơ là yếu cơ. Điểm yếu có thể được chú ý hoặc chỉ có thể được tìm thấy khi thử nghiệm.

Viêm da cơ, viêm đa cơ và các tình trạng viêm cơ khác có xu hướng gây ra tình trạng suy nhược và trở nên tồi tệ hơn từ từ trong vài tuần hoặc vài tháng. Điểm yếu của chúng là ảnh hưởng đến các nhóm cơ lớn, bao gồm cổ, vai, hông và lưng. Cơ bắp ở cả hai bên thường bị ảnh hưởng.

Sự suy yếu do viêm cơ có thể dẫn đến ngã và khó đứng dậy khỏi ghế hoặc sau khi ngã. Các triệu chứng khác có thể xuất hiện với các tình trạng viêm bao gồm:

  • Phát ban

  • Mệt mỏi

  • Da tay dày lên

  • Khó nuốt

  • Khó thở

Những người bị viêm cơ do vi rút thường có các triệu chứng của nhiễm vi rút, chẳng hạn như chảy nước mũi, sốt, ho, đau họng hoặc buồn nôn và tiêu chảy. Nhưng các triệu chứng của nhiễm vi-rút có thể biến mất vài ngày hoặc vài tuần trước khi các triệu chứng viêm cơ bắt đầu.

Một số người viêm cơ bị đau cơ, nhưng nhiều người thì không.

Hầu hết các cơn đau cơ không phải do viêm cơ mà do chấn thương căng cơ, hoặc các bệnh thông thường như cảm lạnh và cúm.

 

Chẩn đoán viêm cơ

Bác sĩ có thể nghi ngờ viêm cơ dựa trên các triệu chứng yếu cơ của một người hoặc các bằng chứng khác của bệnh viêm cơ. Các xét nghiệm cho bệnh viêm cơ bao gồm:

Xét nghiệm máu. Mức độ cao của các enzym cơ, chẳng hạn như creatine kinase, có thể cho biết tình trạng bị viêm cơ. Các xét nghiệm máu khác kiểm tra các kháng thể bất thường có thể xác định tình trạng tự miễn dịch.

Quét MRI. Một máy quét sử dụng một nam châm công suất lớn và một máy tính sẽ tạo ra hình ảnh của các cơ. Chụp MRI có thể giúp xác định các vùng bị viêm cơ và những thay đổi của cơ theo thời gian.

EMG. Bằng cách đưa điện cực kim vào cơ, bác sĩ có thể kiểm tra phản ứng của cơ với các tín hiệu thần kinh điện. EMG có thể xác định các cơ bị yếu hoặc bị tổn thương do viêm cơ.

Sinh thiết cơ. Đây là xét nghiệm chính xác nhất để chẩn đoán bệnh viêm cơ. Bác sĩ xác định cơ yếu, rạch một đường nhỏ và lấy một mẫu mô cơ nhỏ để xét nghiệm. Sinh thiết cơ dẫn đến chẩn đoán cuối cùng ở hầu hết những người bị viêm cơ.

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng yếu cơ và đau phổ biến hơn viêm cơ, việc xét nghiệm viêm cơ không phải là một quá trình đơn giản. Vì những lý do này, quá trình chẩn đoán viêm cơ có thể kéo dài.

 

Điều trị viêm cơ

Điều trị viêm cơ thay đổi tùy theo nguyên nhân.

Các tình trạng viêm gây ra viêm cơ có thể cần điều trị bằng các loại thuốc ức chế hệ thống miễn dịch, bao gồm:

  • Prednisone

  • Azathioprine (Imuran)

  • Methotrexate

Viêm cơ do nhiễm trùng thường do vi rút và không cần điều trị đặc hiệu. Viêm cơ do vi khuẩn không phổ biến và thường cần dùng kháng sinh để ngăn chặn sự lây lan đe dọa tính mạng của sự nhiễm trùng.

Mặc dù tiêu cơ vân hiếm khi xảy ra do viêm cơ, nhưng nó có thể gây tổn thương thận vĩnh viễn. Những người bị tiêu cơ vân phải nhập viện để được truyền dịch liên tục qua đường tĩnh mạch với một lượng lớn.

Viêm cơ liên quan đến thuốc được điều trị bằng cách ngừng thuốc. Trong các trường hợp viêm cơ do dùng thuốc statin, tình trạng viêm cơ thường thuyên giảm trong vài tuần sau khi ngừng thuốc.

 

 
Có thể bạn quan tâm?
UNG THƯ TUYẾN GIÁP

UNG THƯ TUYẾN GIÁP

administrator
THỪA SẮT

THỪA SẮT

administrator
HO GÀ

HO GÀ

administrator
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ

ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ

administrator
XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH NÃO (XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH NỘI SỌ)

XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH NÃO (XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH NỘI SỌ)

Bệnh xơ vữa động mạch nội sọ xảy ra khi các mảng bám (cholesterol, chất béo tích tụ và các vật liệu khác) tích tụ trong các mạch máu ở đáy não, khiến chúng bị thu hẹp và cứng lại. Tình trạng này còn được gọi là xơ vữa động mạch, hẹp hoặc "xơ cứng động mạch". Nếu động mạch bị thu hẹp nghiêm trọng đến mức hạn chế lưu lượng máu lên não, nó có thể gây ra đột quỵ. Đột quỵ có thể do cục máu đông hoặc do chảy máu (xuất huyết) làm mất oxy của các tế bào não, dẫn đến các tế bào não bị chết đi. Bệnh xơ vữa động mạch não được cho là nguyên nhân phổ biến nhất của đột quỵ trên toàn thế giới.
administrator
LAO SINH DỤC

LAO SINH DỤC

administrator
TIỀN SẢN GIẬT

TIỀN SẢN GIẬT

administrator
BỆNH THẤP TIM

BỆNH THẤP TIM

administrator