Giới thiệu về dược liệu
Thạch sùng có tên tiếng Việt là thằn lằn, mối rách, bích cung, bích hổ, thiên long. Tên khoa học là Hemidactylus frenatus Schlegel, họ: Tắc kè – Gekkonidae.
Tương tự như ở rắn, người thằn lằn có vảy, với cơ quan giao cấu đực ghép đôi cùng hộp sọ linh hoạt. Những loài thằn lằn điển hình có phần cơ thể hình trụ vừa phải, 4 chân phát triển tốt, đuôi dài hơn so với đầu và thân cộng lại.
Thạch sùng trưởng thành thường có kích thước từ 3 - 6 inch (khoảng 975 - 1500 mm). Sự thay đổi của bàn chân nhằm leo dọc theo các bức tường, trần nhà là sự thích nghi và thay đổi về mặt giải phẫu của loài bò sát này. Những móng vuốt được mở rộng cùng với các ngón chân có miếng đệm dính.
Tuổi thọ của Thạch sùng trung bình là 5 năm. Loài vật này trở nên trưởng thành về giới tính sau khoảng 1 năm. Thạch sùng có 4 chân phát triển, 1 chiếc đuôi dài và 1 chiếc lưỡi sơ khai để bắt con mồi đang di chuyển.
Quá trình thay đổi về đôi mắt của Thạch sùng cho phép nó nhìn rất rõ trong bóng tối, và đây cũng là thời điểm hoạt động mạnh nhất. Đôi mắt có tỷ lệ hội tụ thấp, mật độ tế bào thị giác cao. Chính điều này làm tăng độ nhạy thị giác ở trong bóng tối.
Thạch sùng có rất nhiều loại khác nhau. Và dân gian thường sử dụng tất cả những con vật có màu trắng bắt được trên tường hay trần nhà. Chủ yếu thường gặp nhất là thạch sùng Hemidactylus frenatus Schlegel. Loài này toàn thân (bao gồm cả đuôi) dài khoảng 8 – 12 cm, trông như con tắc kè hay thằn lằn nhưng nhỏ hơn, với đôi mắt dọc, lưỡi dài hay thè ra để bắt sâu bọ nhỏ bao gồm ruồi, muỗi, nhện. Phần thân nhẵn hay hơi có vảy nhỏ; lưng màu tro; bụng màu trắng hoặc vàng trắng; ở 4 chân có những màng dính để bám chắc trên tường; đuôi dài, có thể đứt và mọc lại sau một thời gian.
Bộ phận dùng, thu hái, chế biến
Thạch sùng được sử dụng làm thuốc ở dạng toàn thân phơi khô.
Thạch sùng được phân phối rất rộng rãi trên toàn thế giới. Loài vật này đa dạng và phong phú nhất ở khu vực nhiệt đới, tuy nhiên có thể được tìm thấy từ Vòng Bắc Cực cho đến nam Phi, Nam Mỹ hay Úc.
Hemidactylus frenatus chỉ sống ở cạn, chủ yếu được tìm thấy ở những khu vực có người sinh sống; ở thành phố, khu đô thị hay làng mạc nơi có ánh sáng thu hút. Loài vật này cũng được tìm thấy trên các bức tường đang xây dựng, nhưng cũng gặp trên cây cối, khúc gỗ mục nát, trên hoặc dưới các tảng đá.
Vào mùa hè, thạch sùng thường xuất hiện khi thắp đèn và có thể dùng tay mà bắt. Đôi khi một số người dùng sống, nhưng cũng có thể sấy khô để dùng dần. Sử dụng toàn con, cả ruột, khi bắt cần chú ý bảo vệ đuôi. Khi bảo quản, cần giữ ở nơi thật khô ráo do rất dễ sinh sâu mọt. Nên bảo quản trong hộp kín có vôi sống. Khi vôi tả cần thay vôi khác.
Thành phần hóa học
Trong thạch sùng, có chứa thành phần bao gồm protid và chất béo.
Vào năm 1970, Trần Huyền Trân đã chiết xuất và phát hiện được chất béo trong Thạch sùng con non khoảng 11,92%, trong khi đó con đực trưởng thành khoảng 15,38% và con cái trưởng thành khoảng 15,97%. Chất béo chủ yếu bao gồm Lyzolexitin, Lexitin, Cardiolipin, Photphatidylinontola, Photphatidyl Serin và Xephalin. Thành phần chất béo này có chỉ số iot là 61.
So sánh sắc ký của thành phần chất béo chiết từ thạch sùng cùng chất béo chiết ở tắc kè cho thấy hai loại chất béo có những vết Rf rất giống nhau. Chuyên gia đã kết luận rằng hy vọng có thể sử dụng thạch sùng thay cho tắc kè trong một số trường hợp. Trên thực tế, dân gian ta cũng đã sử dụng tắc kè và thạch sùng trong điều trị một số bệnh tương tự nhau (Luận án tốt nghiệp dược sĩ cao cấp 1970, Hà Nội).
Tác dụng - Công dụng
Theo Y học cổ truyền
Thạch sùng có vị mặn, tính hàn, ít độc. Công dụng bổ phế thận, ích tinh huyết, khứ phong hoạt lạc, chỉ khái định suyễn, tán kết giải độc hay trấn tĩnh giản kính (an thần, chống co giật). Được sử dụng trong các chứng trúng phong tê liệt, phá thương phong (uốn ván), trẻ em kinh phong (co giật), trẻ em cam tích, ho suyễn lâu ngày, tràng nhạc (hạch kết cổ), khạc ra máu (khái huyết), viêm đa khớp dạng thấp, dương nuy (liệt dương), các chứng đau do thần kinh, nấm da, ác sang (viêm loét ác tính), cước khí…
Thạch sùng là một vị thuốc sử dụng khá phổ biến trong nhân dân. Có ghi chép trong các sách cổ như “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân (thế kỷ thứ 16). Trong “Nam dược thần hiệu” của Tuệ Tĩnh, Việt Nam thế kỷ 17, cũng có ghi ở mục loài có vảy (Lân bộ) sử dụng làm thuốc với tên thủ cung. Trong sách cổ có ghi Thạch sùng vị mặn, tính hàn, hơi độc, quy vào kinh tâm và can. Công dụng trừ phong, chữa đau khớp xương, trị cam lỵ trẻ con, trúng phong (cảm gió), tiêu hòn cục (báng), kinh giản, tràng nhạc hay rắn rết cắn.
Người dân Trung Quốc sử dụng thạch sùng phơi hay sấy khô, tán bột mà uống chữa mụn nhọt, bệnh về dạ dày và ruột, tiêu hóa kém, thần kinh suy nhược, kém ăn, bán thân bất toại, đau thần kinh, viêm khớp mãn tính, nhức đầu kinh niên không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu để xác nhận công dụng của dược liệu này.
Theo y học hiện đại
Thạch sùng có công dụng ức chế khối u, hỗ trợ sinh lực cũng như tăng cường sức đề kháng.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy thạch sùng có công dụng ức chế hô hấp, ức chế tế bào ung thư gan, ức chế trực khuẩn lao cũng như một số loại nấm thường gặp, lao hạch, an thần gây ngủ, chống co giật, ung thư máu, ung thư thực quản dạ dày, chữa suy nhược thần kinh, cốt tủy viêm.
Cách dùng - Liều dùng
Thạch sùng có thể được sử dụng dưới nhiều dạng, chẳng hạn như tươi hoặc khô, sử dụng sắc uống hoặc đắp ngoài. Loài này có thể dùng độc vị hay kết hợp với các vị thuốc khác đều được.
Liều dùng khuyến cáo:
-
Dùng ngoài: Liều lượng vừa phải, tán thành bột mịn, hòa cùng dầu hoặc nước để đắp, tẩm vào gạc và đắp vào vị trí sưng đau.
-
Dùng đường uống: Sử dụng 2 - 5 g mỗi ngày dạng thuốc sắc. Tán bột, hòa nước uống hay ngâm rượu, sử dụng 1 – 2 g mỗi ngày.
Chữa co giật mạn tính do tâm hư (kinh phong)
Chuẩn bị 1 con Thạch sùng sấy khô, tán thành bột và uống với nước sắc bạc hà, có thêm chu sa và xạ hương. Kết hợp uống đơn sắc Nhị trần thang.
Chữa viêm đa khớp dạng thấp
Chuẩn bị khoảng 20g bạch chỉ, 10g Thạch sùng, 10g ngô công. Đem tất cả đi sấy khô, tán thành bột và uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 4g.
Điều trị các vết rò do phẫu thuật, vết mổ
Sử dụng Thạch sùng đem nung khô và tán thành bột mịn. Đầu tiên, rửa sạch vết mổ với nước muối sinh lý, sau đó thổi một lớp bột mịn Thằn lằn vào. Tiếp tục dùng gạc vô trùng đắp lên vết thương để tránh nhiễm trùng. Thay gạc 1 lần hàng ngày.
Có thể kết hợp cùng uống với 2g mỗi loại bột Tam thất, Bạch cập, Xuyên bối mẫu, 1 g Miết trùng. Tất cả đem tán bột, mỗi ngày uống 1 – 2 g x 3 lần có thể tăng hiệu quả điều trị.
Chữa ung thư gan
Chuẩn bị 2 con Thằn lằn khô, đem tán thành bột mịn và dùng uống mỗi ngày.
Điều trị các chứng ung thư khác
Sử dụng Thạch sùng tán thành bột mịn, mỗi ngày uống 5 g x 2 lần. Có thể sử dụng 1 – 3 con mỗi ngày, dùng tán thành bột và chia thành 2 – 3 lần mỗi ngày, uống cùng rượu gạo.
Bên cạnh đó, có thể phối thêm các vị thuốc khác bao gồm Thiềm tô, Long quý giúp hỗ trợ chữa ung thư gan, Hoặc ngô công chữa ung thư dạ dày; Trư linh, Trân châu thái, Sơn đậu căn chữa ung thư phổi.
Chữa lao hạch và hen suyễn
Sử dụng thạch sùng sấy khô, tán thành bột, mỗi ngày uống nửa phân cùng rượu.
Hoặc dùng 2 con thạch sùng, hạ khô thảo 6g sấy khô và tán thành bột chia uống 2 lần. Uống trong ngày cùng rượu vàng kết hợp với thạch sùng sao tồn tính, tán lấy bột, hòa với dầu vừng và bôi lên hạch bị tổn thương.
Chữa ung sang đau nhiều
Dùng thạch sùng tán bột, trộn với dầu vừng và bôi lên vùng da tổn thương.
Chữa chứng tay chân tê bại
Thạch sùng đem sao vàng và trần bì mỗi vị 20g; kết hợp với nhũ hương, một dược, cam thảo mỗi vị 10g. Tất cả đem tán thành bột và uống mỗi ngày 12g.
Chữa đau nhức xương cốt
Thạch sùng đem phơi khô cùng với cúc hoa vàng, địa cốt bì, thanh cao mỗi vị 12-15g. Sắc lấy nước uống mỗi ngày 1 thang.
Lưu ý
Cần lưu ý rằng không bao giờ được tự phép kê đơn Thạch sùng. Vị thuốc Thạch sùng có thể không phù hợp với một số người. Vì vậy, cần tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn tốt nhất.
Một số trường hợp dùng ngoài có thể gặp phải các tác dụng phụ bao gồm gây ngứa, nổi mề đay, nổi ban chẩn. Các triệu chứng này thường không nghiêm trọng và có thể khỏi khi ngừng sử dụng.
Mặc dù là một vị thuốc được sử dụng rất nhiều trong các bài thuốc y học cổ truyền từ hàng trăm năm, nhưng việc sử dụng Thạch sùng sai cách hay không đúng liều lượng có thể gặp phải các tác dụng không mong muốn.